ĐẶC KHU HÀNH CHÍNH HỒNG KÔNG – Media OutReach – Trong thế giới hậu COVID-19, việc quản lý một chương trình trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) nhằm tạo ra sự khác biệt có ý nghĩa, cân bằng các quan điểm và mối quan tâm của các bên liên quan khác nhau và hiệu quả về chi phí có thể là mộtnhiệm vụ khó thực hiện.
Nhiệm vụ này thậm chí còn trở nên phức tạp hơn đối với các tổ chức, tập đoàn đa quốc gia hoạt động ở các địa phương xa xôi và trên nhiều nền văn hóa khác nhau và khi các công ty ngày càng được đánh giá về mức độ sẵn sàng thể hiện cam kết giúp chống lại đại dịch COVID-19 và có các hành động cứu trợ cho các bên liên quan bị ảnh hưởng.
Về vấn đề này, nghiên cứu mới được thực hiện bởi một nhóm chuyên gia, bao gồm Trường Kinh doanh thuộc Đại học Hồng Kông Trung Quốc (The Chinese University of Hong Kong- CUHK), đã phát hiện ra rằng, các hoạt động CSR do tổ chức mẹ của một công ty đa quốc gia thực hiện có thể ảnh hưởng tích cực đến khả năng hoạt động của các công ty con ở các thị trường nước ngoài của họ.
Trong khi nghiên cứu trước đây có xu hướng tập trung vào tác động của CSR ở cấp tập đoàn, thì nghiên cứu mới do ông Shige Makino, Giáo sư Quản lý tại Trường Kinh doanh CUHK, phối hợp với Giáo sư Frank Jiang Guoliang của Đại học Carleton (Canada) và Giáo sư Jae C. Jung của Đại học Missouri – Kansas City (Mỹ) thực hiện; đi sâu vào cách CSR ảnh hưởng đến các công ty con trên các quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau.
Với tiêu đề Parent Firm Corporate Social Responsibility and Overseas Subsidiary Performance: A Signaling Perspective (tạm dịch: Trách nhiệm xã hội của công ty mẹ và hiệu quả hoạt động của công ty con ở nước ngoài: Góc nhìn mang tính báo hiệu), nghiên cứu đã tham khảo và phân tích chéo thông tin tài chính, đầu tư trong nước và hoạt động CSR của 196 công ty Nhật Bản từ năm 2002 đến năm 2014 trên ba cơ sở dữ liệu.
Việc đầu tư vào các bên liên quan tại địa phương
Việc mua lại cổ phần của các bên liên quan là rất quan trọng đối với các công ty hoạt động trên nhiều thị trường trên thế giới. Một công ty hoạt động ở các quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau phải giao dịch với các bên liên quan tại địa phương trong mỗi thị trường của mình và những bên này có thể bao gồm chính phủ, các tổ chức khu vực công và tư nhân, chưa kể đến cộng đồng rộng lớn hơn. Nhìn chung, chúng ảnh hưởng đến các phần quan trọng trong hoạt động của công ty con, chẳng hạn như thông qua việc cấp giấy phép hoạt động, cũng như hình thành các nhà cung cấp hoặc khách hàng chính.
Chỉ khi các bên liên quan này hài lòng rằng các biện pháp thực hành xã hội và môi trường của công ty phù hợp với thực tế của họ ,thì họ mới sẵn sàng cấp quyền truy cập và hỗ trợ các hoạt động tại địa phương của công ty con.
Vấn đề đối với một số tổ chức đa quốc gia là do họ có thể triển khai các nguồn lực rộng lớn để mở rộng ở các thị trường mới một cách nhanh chóng, nên đôi khi họ chưa có đủ thời gian và thiếu hồ sơ địa phương cần thiết để xây dựng mối quan hệ làm việc với các bên liên quan trong khu vực.
Điều này có thể được giải quyết ở một mức độ nhất định bằng cách các công ty mẹ cung cấp thông tin như lập trường xã hội và môi trường, cam kết xây dựng một môi trường làm việc tích cực và chất lượng sản phẩm, cũng như duy trì sự phát triển một cách bền vững. Cái gọi là “tín hiệu” tầm xa như vậy có thể cung cấp cho các bên liên quan của một công ty con địa phương thông tin có lợi cho việc xây dựng nền tảng của mối quan hệ làm việc tốt, đặc biệt khi công ty con còn khá mới mẻ, chưa phải là một thực thể được biết đến nhiều tại thị trường cụ thể đó.
Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng, hiệu ứng này thay đổi tùy thuộc vào hoạt động của công ty con.
Giáo sư Shige Makino cho biết: “Chúng tôi nhận thấy rằng, các công ty con là đơn vị sản xuất (khác với kinh doanh thuần túy) của các tập đoàn đa quốc gia có xu hướng có nhiều bên liên quan đa dạng hơn. Điều đó có nghĩa là họ được khuyến khích nhiều hơn để tìm hiểu về các giá trị CSR của các công ty hoạt động ở đó và có phương tiện tốt hơn để làm như vậy”.
Giáo sư Shige Makino cho biết thêm rằng, các bên liên quan của hoạt động sản xuất thường bao gồm từ các liên đoàn lao động, đến các nhà cung cấp địa phương và các tổ chức phi chính phủ (NGO) về môi trường, tất cả đều được đầu tư nhiều vào cách các công ty đa quốc gia hoạt động trên quan điểm sinh thái, kinh tế và xã hội.
Các đơn vị sản xuất cũng thường có dính dáng đến môi trường lớn hơn và tạo ra nhiều công việc có kỹ năng hơn và đội ngũ nhân viên được trả lương cao hơn, có nghĩa là họ có tác động lớn hơn đến nền kinh tế và cộng đồng địa phương.
Việc sở hữu cổ phần cao hơn có nghĩa là các bên liên quan địa phương của các công ty con sản xuất có khả năng nhận thấy thông điệp CSR do một văn phòng công ty ở xa truyền đạt là không đủ. Bởi vì các bên liên quan này có tổ chức hơn, họ cũng có phương tiện để tìm hiểu thêm về công ty hoạt động trong phạm vi quyền hạn của họ.
Mặt khác, các bên liên quan của các công ty con bán hàng chủ yếu bao gồm người tiêu dùng, những người thường dễ tiếp nhận tín hiệu CSR hơn ở cấp độ công ty.
Tự do báo chí và Thông tin địa phương
Nghiên cứu cũng cho thấy rằng, một tập đoàn đa quốc gia có xu hướng có thể truyền đạt tốt hơn các giá trị CSR trong toàn tập đoàn, khi các quốc gia, nơi các công ty con của họ hoạt động có môi trường và mức độ tự do báo chí cao.
Theo Giáo sư Shige Makino, việc có môi trường truyền thông tự do và cởi mở cho phép các công ty đa quốc gia không chỉ truyền đạt cho các bên liên quan các giá trị CSR của mình, mà còn khiến các bên liên quan dễ tiếp nhận hơn và dễ hiểu thông điệp được đưa ra hơn.
Một yếu tố quan trọng khác mà các nhà nghiên cứu đã xem xét là cách thông tin địa phương về một công ty con (khi công ty đã thiết lập sự hiện diện hoạt động rộng rãi trong nước) tương tác với thông điệp CSR từ công ty mẹ. Nghiên cứu phát hiện ra rằng, sự sẵn có của thông tin về một công ty con địa phương làm giảm hiệu ứng “hào quang” hay hiệu ứng lan tỏa (“halo” effect) của danh tiếng về CSR của công ty mẹ.
Giáo sư Shige Makino nhận xét: “Nếu một bên liên quan địa phương thấy rằng, một công ty con tiến hành cuộc nói chuyện, thì thông tin đó có khả năng có lợi cho họ hơn là một thông cáo báo chí được đưa ra bởi các giám đốc điều hành ở lục địa khác. Khi một công ty đã hoạt động đủ lâu trên một thị trường để có một hồ sơ theo dõi, thông tin được bản địa hóa này cung cấp một cách tốt hơn để các bên liên quan đánh giá các giá trị xã hội, môi trường và đạo đức của công ty”.
Nhìn rộng hơn, những phát hiện này có nghĩa là tín hiệu CSR từ một công ty mẹ có thể là một nguồn lợi thế cạnh tranh cho các công ty con ở nước ngoài, điều mà những nhà quản lý công ty nên tích cực khai thác một cách có hiệu quả.
Ông Shige Makino nhấn mạnh: “Đặc biệt, các giám đốc điều hành cấp cao của công ty nên tìm cách tinh chỉnh số lượng, chất lượng và cách thức mà thông tin liên quan đến CSR toàn tập đoàn có thể được truy cập để tạo niềm tin và sự hỗ trợ với các bên liên quan ở những nơi mà các công ty con hoạt động. Cuối cùng, các công ty đa quốc gia nên tìm cách điều chỉnh thông điệp CSR của họ cho phù hợp với từng thị trường, thay vì áp dụng phương pháp mang tính đại trà theo kiểu “một kích thước phù hợp với tất cả” (one-size-fits-all). Mỗi thị trường có nét riêng biệt, khác nhau, vì vậy bằng cách điều chỉnh thông điệp CSR của họ cho các thị trường cụ thể, các công ty đa quốc gia có thể cung cấp một cách chính xác hơn để các bên liên quan ở các quốc gia cụ thể tìm hiểu trực tiếp về giá trị của các công ty con của họ hoạt động ở đó”.
Tài liệu tham khảo
Guoliang Frank Jiang, Jae C. Jung, Shige Makino, Parent Firm Corporate Social Responsibility and Overseas Subsidiary Performance: A Signaling Perspective (tạm dịch: Trách nhiệm xã hội của công ty mẹ và hiệu quả hoạt động của công ty con ở nước ngoài: Góc nhìn mang tính báo hiệu) Journal of World Business, Volume 55, Issue 6, 2020.
Bài báo này được xuất bản lần đầu trên trang web Kiến thức Kinh doanh Trung Quốc (China Business Knowledge – CBK) bởi Trường Kinh doanh, thuộc CUHK: https://bit.ly/3otZ7zj.
Thông tin về CUHK Business School (Trường Kinh doanh, thuộc CUHK)
Trường Kinh doanh thuộc CUHK bao gồm 2 trường – Kế toán và Quản lý khách sạn và Du lịch – và 4 khoa – Khoa Kinh tế quản lý và khoa học phục vụ việc ra quyết định, Tài chính, Quản lý và Marketing. Được thành lập tại Hồng Kông vào năm 1963, đây là trường kinh doanh đầu tiên cung cấp các chương trình cử nhân về quản trị kinh doanh (BBA), thạc sĩ về quản trị kinh doanh (MBA) và thạc sĩ cao cấp về quản trị kinh doanh (Executive MBA) trong khu vực. Hiện tại, Trường cung cấp 10 chương trình đại học và 18 chương trình sau đại học, bao gồm MBA, EMBA, Master, MSc, MPhil và Ph.D.
Trong Bảng xếp hạng MBA toàn cầu của Financial Times năm 2020, chương trình đào tạo của CUHK được xếp hạng thứ 50. Trong bảng xếp hạng EMBA năm 2019 của Financial Times, CUHK EMBA được xếp hạng 24 trên thế giới. Trường Kinh doanh thuộc CUHK có số lượng cựu sinh viên kinh doanh lớn nhất (hơn 40.000 người) trong số các trường đại học / trường kinh doanh tại Hồng Kông. Nhiều người trong số họ là lãnh đạo chủ chốt doanh nghiệp. Trường hiện có khoảng 4.800 sinh viên đại học và sau đại học và Giáo sư Lin Zhou là Hiệu trưởng Trường Kinh doanh thuộc CUHK.
Thông tin thêm có sẵn tại http://www.bschool.cuhk.edu.hk hoặc bằng cách kết nối với Trường Kinh doanh, thuộc CUHK trên:
Facebook: www.facebook.com/cuhkbschool
Instagram: www.instagram.com/cuhkbusinessschool
LinkedIn: www.linkedin.com/school/3923680
WeChat: CUHKBusinessSchool
Recent Comments