ĐẶC KHU HÀNH CHÍNH HỒNG KÔNG – Ngày 7 tháng 8 năm 2023 – Một nghiên cứu do các nhà khoa học của Đại học Baptist Hồng Kông (Hong Kong Baptist University – HKBU) dẫn đầu đã phát hiện ra rằng, isoliquiritigenin (ISL), một loại flavonoid được phân lập từ thuốc thảo dược Trung Quốc cam thảo, có thể ức chế sự phát triển của ung thư tuyến tụy. Nó cũng có thể nâng cao hiệu quả của các loại thuốc hóa trị liệu thông thường trong điều trị ung thư tuyến tụy. Đây là lần đầu tiên một nhóm nghiên cứu báo cáo tiềm năng chống ung thư của ISL trong điều trị ung thư tuyến tụy.
Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí học thuật quốc tế Phytomedicine và gần đây đã được trình bày tại Đại hội thường niên của Hiệp hội Nghiên cứu ung thư châu Âu năm 2023 tại Torino, Italia.
Ung thư tuyến tụy là “kẻ giết người thầm lặng”
Ung thư tuyến tụy thường được gọi là “kẻ giết người thầm lặng” vì hầu hết bệnh nhân đều có ít hoặc không có triệu chứng cho đến khi nó tiến triển và lan rộng. Theo Thống kê Ung thư Toàn cầu năm 2020 do Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế công bố, tỷ lệ tử vong trên tỷ lệ mắc bệnh ung thư tuyến tụy là hơn 93%. Đây là bênh ung thư đứng thứ tư trong số các bênh ung thư gây tử vong nhiều nhất ở Hồng Kông.
Phẫu thuật Whipple (pancreaticoduodenectomy – cắt bỏ tụy-tá tràng) là phương pháp điều trị duy nhất có thể chữa khỏi bệnh ung thư tuyến tụy. Tuy nhiên, chỉ có 20% bệnh nhân thích hợp để cắt bỏ và tỷ lệ tái phát cao. Trong các trường hợp không thể cắt bỏ và bệnh nhân ung thư tuyến tụy di căn, thuốc hóa trị liệu gemcitabine (GEM) vẫn là phương pháp điều trị chính. Tuy nhiên, liệu pháp kết hợp dựa trên GEM thể hiện tính kháng hóa học sâu sắc với độc tính toàn thân nghiêm trọng.
Chiết xuất Gancao được xác định là tác nhân chống ung thư
Trong quá trình tìm kiếm các phương pháp điều trị thay thế cho bệnh ung thư tuyến tụy, một nhóm nghiên cứu do Tiến sĩ Joshua Ko Ka-Shun, Phó giáo sư, Phòng Giảng dạy và Nghiên cứu của Trường Y học Trung Quốc thuộc HKBU, đứng đầu, đã sàng lọc tất cả các dấu hiệu bệnh ung thư tuyến tụy tiềm ẩn và các hoạt động trị liệu sinh học của hóa chất thực vật từ cây thuốc Glycyrrhiza glabra (cam thảo, hoặc Gancao trong tiếng Trung Quốc) bằng cách sử dụng dược lý mạng.
Dược học mạng (Network pharmacology) là một chuyên ngành mới nổi, lập danh mục một cách có hệ thống các tương tác phân tử của phân tử thuốc trong tế bào sống bằng cách sử dụng các tính toán phức tạp và đã trở thành một công cụ quan trọng trong khám phá thuốc thực vật. Với việc sử dụng phương pháp này, nhóm nghiên cứu đã xác định ISL là tác nhân chống ung thư tiềm năng để điều trị ung thư tuyến tụy.
Với hàng loạt thí nghiệm trên tế bào, nhóm nghiên cứu đã chứng minh rằng, ISL ngăn chặn sự phát triển và gây ra quá trình chết theo chương trình (chết tế bào theo chương trình) của các tế bào ung thư tuyến tụy. Trong hai dòng tế bào ung thư tuyến tụy ở người được áp dụng với nồng độ ISL lần lượt là 12,5 μM và 25 μM, tỷ lệ sống sót của tế bào của chúng thấp hơn khoảng 50% và 80% so với các tế bào đối chứng không áp dụng ISL. Tỷ lệ chết theo chương trình ở giai đoạn cuối trong hai dòng tế bào lần lượt là 11% và 13%, so với dưới 5% trong các tế bào đối chứng.
Ức chế sự tiến triển của ung thư với ít tác dụng phụ hơn
Tiến sĩ Joshua Ko Ka-Shun cho biết: “ISL sở hữu một đặc tính độc đáo là ức chế sự tiến triển của bệnh ung thư tuyến tụy thông qua việc phong tỏa quá trình tự thực – suy thoái tự nhiên (autophagy). Đây là một quá trình tự nhiên, trong đó các tế bào của cơ thể loại bỏ các thành phần bị hư hỏng hoặc không cần thiết. Việc phong tỏa quá trình tự thực ở giai đoạn cuối trong các thí nghiệm của chúng tôi dẫn đến cái chết của tế bào ung thư”.
Nhóm nghiên cứu tiếp tục sử dụng mô hình khối u ở chuột để điều tra hiệu quả của ISL trong việc ức chế sự phát triển của tế bào ung thư tuyến tụy in vivo. Những con chuột được chia thành ba nhóm với GEM (nhóm GEM), ISL (nhóm ISL) và không áp dụng chất điều trị (nhóm kiểm soát). Nhóm ISL được chia thành hai nhóm phụ được điều trị bằng ISL 30mg/kg và 60mg/kg.
Vào ngày thử nghiệm thứ 21, thể tích khối u của nhóm đối chứng và nhóm GEM lần lượt là 1.000 mm3 và 400 mm3. Thể tích khối u của hai phân nhóm ISL được điều trị bằng ISL 30 mg/kg và 60 mg/kg lần lượt là khoảng 500 mm3 và 300 mm3. Kết quả cho thấy, ISL đã chứng minh hiệu quả điều trị tương đương với GEM. Trong khi đó, so với GEM, ISL cho thấy ít tác dụng phụ hơn ở chuột bao gồm giảm bạch cầu trung tính (giảm số lượng bạch cầu), thiếu máu và giảm cân.
Tăng cường tác dụng của hóa trị liệu
Các loại thuốc hóa trị liệu hàng đầu hiện nay cho bệnh ung thư tuyến tụy, chẳng hạn như GEM và 5-fluorouracil (5-FU), thường liên quan đến kháng hóa chất. Đó là bởi vì những loại thuốc này gây ra bệnh autophagy tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của tế bào ung thư và do đó gây nguy hiểm cho hiệu quả điều trị của chúng.
Để khám phá tiềm năng của ISL trong việc chống lại tính kháng hóa học của GEM và 5-FU, nhóm nghiên cứu đã thiết lập các thí nghiệm với các tế bào ung thư tuyến tụy được điều trị bằng GEM hoặc 5-FU đơn lẻ và GEM hoặc 5-FU cùng với ISL. Tỷ lệ ức chế tăng trưởng của các tế bào ung thư tuyến tụy được áp dụng cùng với GEM và ISL cao hơn 18% so với chỉ sử dụng GEM, trong khi tỷ lệ ức chế tăng trưởng khi sử dụng 5-FU và ISL cùng nhau cao hơn 30% so với chỉ sử dụng 5-FU. Kết quả cho thấy, ISL có thể tăng cường hiệu quả điều trị của các loại thuốc hóa trị liệu bằng cách ngăn chặn quá trình tự thực, dẫn đến cái chết của các tế bào ung thư.
Tiến sĩ Joshua Ko Ka-Shun phát biểu: “Những phát hiện trong nghiên cứu này mở ra một con đường mới để phát triển ISL như một chất ức chế autophagy mới trong điều trị ung thư tuyến tụy. Chúng tôi hy vọng có thể hợp tác với các đối tác nghiên cứu khác để đánh giá thêm hiệu quả và tiềm năng ứng dụng lâm sàng của ISL trong điều trị ung thư tuyến tụy”.
Hashtag: #pancreaticcancer #isoliquiritigenin
Nguồn phát hành hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của thông báo này.
Recent Comments